Chủ Nhật, 7 tháng 9, 2025

10 kiểu nghỉ hưu

 1./Về hưu đi nhảy, đi câu

Tham quan, du lịch Tây, Tàu liên miên

Chẳng lo cơm áo, gạo tiền

Vô tư, thanh thản không phiền lụy ai

Đấy là HƯU TRÍ không sai

Nhưng mà thiên hạ mấy ai có nào ?

2./Về hưu thậm thụt ra vào

"Buôn dưa", hóng chuyện tào lao vỉa hè

Rượu bia, cá độ, lô đề

Tối ngày "bám trụ" quán chè làm vui

Loạn ngôn bất mãn với đời

Sẵn sàng "Đấu khẩu" buông lời khó nghe

Thích trò "Thọc gậy bánh xe"

Bà con hàng xóm cười chê: HƯU KHÙNG.

3./Về hưu nổi máu anh hùng

Xin làm cán bộ "Ba cùng" với dân

Nửa đời chỉ biết làm "Quân"

Nay về làm "Tướng" muôn phần oai phong

Dẹp chợ, cấm, phạt hàng rong

Bắt dân đóng góp từng đồng...vệ sinh

Làm việc để mất chữ tình

Vợ con mới bảo rằng mình: HƯU HÂM.

4./Về hưu lại nổi máu dê

"Cưa sừng làm nghé" sưu tầm gái tơ

Về già mới học làm thơ

Đem tiền nuôi gái, ngẩn ngơ tối ngày

Lưới tình càng mắc càng say

Thế nên mới gọi hưu này: HƯU DÊ.

5./Về hưu lại bỏ về quê

Trồng rau, cuốc đất, chăn dê, nuôi gà

Kiêng đường, thịt, mỡ, trứng, da,

Bia, rượu, thuốc lá...đàn bà cũng kiêng

Kiêng ăn, kiêng cả tiêu tiền

Họ hàng, bè bạn than phiền: HƯU TU.

6./Về hưu làm việc lu bù

Kiếm tiền tiết kiệm từng xu, từng đồng

Hoặc làm thêm đỡ buồn lòng

Chuốc thêm vất vả long đong tối ngày

Mọi người bảo là đi cày

Cho nên mới gọi hưu này: HƯU TRÂU.

7./Về hưu chẳng dám đi đâu

Nấu cơm, đi chợ, nhặt rau, quét nhà

Chăm con, nuôi cháu, trông già

Kiêm luôn bảo vệ coi nhà, giữ xe

Thế nên bị gọi khó nghe

Ấy là: HƯU CHÓ, làm thuê trong nhà

8./Về hưu nhưng vẫn chưa già

Phải về trước tuổi gọi là: HƯU NON.

9./Về hưu quyền chức không còn

Bổng lộc hết cả rút bòn được ai

Khi còn đương chức tác oai

Tham ô, hối lộ, tiêu xài của dân

Về già mất hết người thân

Đệ tử, thân tín cũng dần bỏ đi

Quyền cao chức trọng mà chi

"Hai năm mươi" cũng xanh rì cỏ thôi

Gặp dân không dám mở lời

Hội hè, đình đám mọi người tránh xa

Bán xe, bán đất, bán nhà

Bỏ quê trốn lủi gọi là: HƯU MA.

10./Về hưu chưa kịp dưỡng già

Đã coi bệnh viện như nhà của riêng

Bao nhiêu sở thích phải kiêng

Đái đường, huyết áp, bệnh tim, đại tràng

Loãng xương, tiền liệt, bàng quang

Lương vừa mới lĩnh đã mang thuốc rồi..

Cháu con mỗi đứa một nơi

Gọi là: HƯU HẮT cuối đời cô đơn.

                                     Sưu tầm

Thứ Sáu, 22 tháng 1, 2021

The Hill We Climb (Ngọn đồi chúng ta leo lên)

 


The Hill We Climb

 

Amanda Gorman

When day comes, we ask ourselves where can we find light in this never ending shade? The loss we carry, a sea we must wade. We braved the belly of the beast.

We’ve learned that quiet isn’t always peace and the normsand notions of what just is, isn’t always justice. And yet the dawn is hours before we knew it, somehow we do it, somehow we’ve weathered and witnessed a nation that isn’t broken but simply unfinished.

We, the successors of a country and a time, where a skinny black girl descended from slaves and raised by a single mother can dream of becoming president, only to find herself reciting for one.

And yes, we are far from polished, far from pristine, but that doesn’t mean we are striving to form a union that is perfect. We are striving to forge our union with purpose, to compose a country committed to all cultures, colors, characters, and conditions of man. And so we lift our gazes not to what stands between us but what standsbefore us. We close the divide because we know to put our future first. We must first put our differences aside.

We lay down our arms so we can reach out our arms to one another We seek harm to none and harmony for all. Let the globe, if nothing else, say this is true, that even as we grieved, we grew. That even as we hurt, we hoped.

That even as we tired, we tried. That we’ll forever be tied together, victorious, not because we will never again know defeat, but because we will never again sow division.

Scripture tells us to envision that everyone shall sit undertheir own vine and fig tree, and no one shall make them afraid.

If we’re to live up to our own time, then victory won’t lighten the blade but in all the bridges we’ve made, that is the promise to glade, the hill we climb if only we dare, it’s because being American is more than a pride we inherit. It’s the past we stepped into and how we repair it.

We’ve seen a force that would shatter our nation rather than share it, would destroy our country if it meantdelaying democracy.

And this effort very nearly succeeded. But while democracy can be periodically delayed, it can never be permanentlydefeated. In this truth, in this faith, we trust. For while we have our eyes on the future, history has its eyes on us.

This is the era of just redemption. We feared – at its deception. We did not feel prepared to be the heirs of such a terrifying hour, but within it we found the power to author a new chapter, to offer hope and laughter to ourselves.

So, while once we asked, “how could we possibly prevail over catastrophe?”, now we assert, “how could catastrophe possibly prevail over us?” We will not march back to what was, but move to what shall be, a country that is bruisedbut whole, benevolent but bold, fierce and free. We will not be turned around or interrupted by intimidation.

Because we know our inaction and inertia will be the inheritance of the next generation. Our blunders become their burdens. But one thing is certain. If we merge mercy with might and might with right, then love becomes our legacy and change, our children’s birth right.

So let us leave behind a country better than one we were left with, every breath from my bronze pounded chest, we will raise this wounded world into a wondrous one. We will rise through the gold-limbed hills in the west, we will rise from the windswept northeast where our forefathersfirst realized revolution. We will rise from the lake-rimmed cities of the Midwestern states.

We will rise from the sun-baked South. We will rebuild, reconcile, and recover, in every known nook of our nation, in every corner called our country, our people diverse and beautiful, will emerge battered and beautiful.

When day comes, we step out of the shade, aflame and unafraid.

The new dawn blooms as we free it for there is always light if only we’re brave enough to see it, if only we’re braveenough to be it.

Ngọn đồi chúng ta leo lên – Bài thơ Amanda Gorman đọc tại lễ nhậm chức của Tổng thống Joe Biden

Amanda Gorman

Trần Ngọc Cư dịch

 

Lời người dịch:

Bài thơ này hay ở luyến láy phụ âm (alliteration), các

chữ bắt đầu cùng một phụ âm đứng gần nhau, hay ở cách dùng chữ đồng âm dị nghĩa, và các ẩn dụ lấy từ Thánh Kinh và Lịch sử.

Một bài thơ như thế này khó dịch ra tiếng Việt mà có thể chuyển đạt toàn bộ ý nghĩa và âm điệu từ ngôn ngữ sang ngôn ngữ khác.

Gorman, 23 tuổi, đã trình diễn một bài thơ gốc có tựa đề "The Hill We Climb" (Ngọn đồi chúng ta leo lên) tại lễ nhậm chức của Tổng thống đắc cử Joe Biden, tiếp nối truyền thống bao gồm các nhà thơ nổi tiếng như Robert Frost tại lễ nhậm chức của JFK 1961 và Maya Angelou với Barack Obama 2009.

Trong khoảng năm phút đọc bài thơ của mình, Gorman kêu gọi hàn gắn vết thương và đoàn kết, ám chỉ đến cuộc biểu tình ủng hộ Trump hai tuần trước đã trở thành một cơn bão dữ dội ở Điện Capitol Hoa Kỳ. Cô cũng tôn vinh vẻ đẹp của sự đa dạng của đất nước và kêu gọi người Mỹ hãy tận dụng cơ hội này và làm cho đất nước họ tốt hơn những gì họ đã tìm thấy.

Khi một ngày đến, chúng ta tự hỏi mình, chúng ta có thể tìm thấy ánh sáng ở đâu trong bóng râm không bao giờ tàn này, mất mát mà chúng ta mang theo, một vùng biển chúng ta phải lội?

Chúng ta đã dũng cảm trong bụng con quái vật (*), chúng ta đã học được rằng lặng thinh không phải lúc nào cũng là hòa bình. Và những chuẩn mực và những khái niệm về những gì tồn tại không phải lúc nào cũng là công lý. Và bình minh là của chúng ta trước khi chúng ta biết đến nó, bằng cách nào đó chúng ta đang biết đến nó. Bằng cách nào đó chúng ta đã vượt qua và chứng kiến một quốc gia không tan rã, mà chỉ đơn thuần là còn bị dở dang.

Chúng ta, những người thừa kế một đất nước và một thời kỳ mà một cô gái da đen gầy gò có tổ tiên là nô lệ và được một bà mẹ đơn thân nuôi nấng có thể mơ có ngày trở thành tổng thống chỉ để thấy mình đọc thơ cho một tổng thống nghe.

Và vâng, chúng ta chưa được trau chuốt, chưa được trong ngọc trắng ngà, nhưng điều đó không có nghĩa là chúng ta đang ra sức làm nên một khối đoàn kết hoàn hảo. Chúng ta đang cố gắng hình thành một khối đoàn kết có chủ đích. Để tạo ra một đất nước cam kết bảo vệ mọi văn hóa, mọi màu da, mọi cá tính và mọi thân phận con người.

Và vì vậy, chúng ta phải nâng tầm nhìn không phải đến những gì ngăn cách chúng ta, mà đến những gì đứng trước mặt chúng ta. Chúng ta khép lại khoảng cách, bởi vì chúng ta biết đặt tương lai của mình lên trên hết, trước tiên chúng ta phải gạt các dị biệt của mình sang một bên. Chúng ta hạ vũ khí xuống để có thể dang rộng vòng tay của chúng ta với nhau. Chúng ta không tìm cách hãm hại bất cứ một ai mà phải tìm kiếm sự hài hòa với tất cả mọi người.

Tốt nhất, cả thế giới phải nhận điều này là đúng: rằng ngay cả khi chúng ta đau buồn, chúng ta đã lớn lên; rằng ngay cả khi chúng ta bị tổn thương, chúng ta hy vọng; rằng ngay cả khi chúng ta mệt mỏi, chúng ta đã cố gắng; tất cả những điều này sẽ mãi mãi gắn kết với nhau mà đưa đến thắng lợi, không phải vì chúng ta sẽ không bao giờ nếm mùi thất bại mà vì chúng ta sẽ không bao giờ gieo rắc chia rẽ thêm một lần nữa.

Kinh Thánh khuyên chúng ta hình dung rằng’mọi người sẽ ngồi dưới gốc nho và cây vả của mình và không ai làm cho họ sợ hãi. Nếu chúng ta chiêm nghiệm về thời đại mình đang sống, thì chiến thắng sẽ không nằm ở lưỡi gươm mà nằm ở tất cả những cây cầu mà chúng ta xây dựng.

Đó là lời hứa về một không gian rộng mở bên kia ngọn đồi chúng ta leo lên nếu chúng ta dám thực hiện điều đó, bởi vì làm người Mỹ không chỉ là niềm tự hào mà chúng ta thừa hưởng – mà đó là quá khứ chúng ta bước vào và cung cách chúng ta sửa chữa nó.

Chúng ta đã thấy một thế lực có thể làm tan rã quốc gia của chúng ta thay vì chia sẻ nó, sẽ phá hủy đất nước của chúng ta nếu điều đó đồng nghĩa với việc trì hoãn dân chủ. Và nỗ lực này suýt đã thành công. Tuy nhiên, mặc dù dân chủ có thể bị trì hoãn theo định kỳ, nhưng nó không bao giờ có thể bị đánh bại vĩnh viễn.

Chính chân lý này, chính sự tin tưởng này, chúng ta đặt hết lòng mình trong đó, vì trong khi chúng ta hướng về tương lai, lịch sử đã để mắt đến chúng ta. Đây là kỷ nguyên chuộc tội rất công bằng mà chúng ta đã sợ hãi trong giai đoạn đầu lịch sử.

Trước đây chúng ta không cảm thấy sẵn sàng trở thành người kế thừa của một giờ phút kinh hoàng như vậy, nhưng một khi ở trong đó rồi, chúng ta đã tìm thấy sức mạnh để viết ra một trang sử mới, mang lại hy vọng và tiếng cười cho chính chúng ta. Vì thế mặc dù trước đây chúng ta hỏi ‘làm thế nào chúng ta khắc phục được thảm hoạ,’ bây giờ chúng ta quyết đoán: ‘sức mấy mà thảm họa có thể khống chế được chúng ta?’

Chúng ta sẽ không quay về với sự việc đã diễn ra, mà tiến tới thực tế trước mắt: một đất nước bị thương tích nhưng vẹn toàn, nhân từ nhưng táo bạo, quyết liệt và tự do. Chúng ta sẽ không sợ bị đẩy lùi hoặc làm gián đoạn bởi một sự hù doạ nào đó, vì chúng ta biết rằng hành động và sức ì của chúng ta sẽ được thế hệ sau thừa kế.

Những cơ chế pha trộn văn hóa của chúng ta trở thành gánh nặng tự thân của chúng nhưng có một điều chắc chắn: Nếu chúng ta hợp nhất lòng thương xót với sức mạnh và sức mạnh với lẽ phải, thì tình yêu sẽ trở thành di sản của chúng ta trong mọi cuộc đổi thay, trở thành quyền bẩm sinh của con cái chúng ta.

Vì vậy, chúng ta hãy để lại cho đời sau một đất nước tốt đẹp hơn đất nước mà chúng ta được tiền nhân để lại. Với mỗi hơi thở từ lồng ngực bọc đồng của tôi, chúng ta sẽ nâng thế giới bị tổn thương này thành một thế giới diệu kỳ. Chúng ta sẽ vươn lên từ những ngọn đồi óng ả của miền tây, chúng ta sẽ trỗi dậy từ những cơn gió thổi qua miền đông bắc nơi tổ tiên chúng ta lần đầu tiên làm nên cách mạng. Chúng ta sẽ vươn lên từ những thành phố đầy hồ nước của các bang miền trung tây. Chúng ta sẽ vươn lên từ miền Nam nắng cháy. Chúng ta sẽ xây dựng lại, hòa giải, và phục hồi trong mọi ngóc ngách đã biết đến của quốc gia chúng ta và mọi góc gọi là đất nước chúng ta, nhân dân chúng ta đa dạng và xinh đẹp sẽ trỗi dậy dạn dày và tươi đẹp.

Khi ngày đến, chúng ta bước ra khỏi bóng râm, rực cháy và can trường. Bình minh mới trỗ hoa khi chúng ta giải phóng nó. Vì luôn có ánh sáng, chỉ cần chúng ta đủ dũng cảm để nhìn thấy nó, chỉ cần chúng ta đủ can đảm để làm ánh sáng."

(*) Gorman lấy ẩn dụ từ cuốn In the Belly of the Beast của Jack Henry Abbott. Cuốn sách xuất bản năm 1981, gồm những bức thư của tác giả, một tù nhân, gửi Norman Mailer kể những trải nghiệm của mình về sự tàn ác của hệ thống nhà tù Mỹ. (Trần Ngọc Cư)

 

Chủ Nhật, 18 tháng 8, 2019

Vì sao nước Mỹ không có "Lãnh tụ vĩ đại"

        Đọc lịch sử nước Mỹ, sẽ có nhiều người thắc mắc: Vì sao một đất nước đã làm nên rất nhiều điều kỳ diệu, thay đổi cuộc sống người dân, thay đổi cả thế giới, nhưng nước Mỹ không có lấy một "lãnh tụ vĩ đại" nào cả, không có người dân nào tôn sùng lãnh đạo của họ?
Mặc dù dân Mỹ có được cuộc sống mà dân chúng ở nhiều nước khác mơ ước, nhưng họ không tôn thờ bất kỳ một nhân vật lãnh đạo nào, không coi một nhân vật nào là thánh sống, chưa từng nghe người nào nói "nhờ ơn Tổng thống George Washington", hay "nhờ ơn Tổng thống Abraham Lincoln" mà họ có được như ngày hôm nay.
Người Mỹ da đen cũng không phải biết ơn Tổng thống Abraham Lincoln, mặc dù vị tổng thống này đã giúp giải phóng hàng triệu nô lệ da đen, viết nên Bản Tuyên ngôn Giải phóng Nô lệ năm 1862, giúp trả tự do cho hàng triệu nô lệ thời bấy giờ.
Nói đến chuyện giải phóng nô lệ, cũng cần nhắc đến cuộc nội chiến Mỹ năm 1861, khi các tiểu bang ở miền Nam nước Mỹ muốn duy trì chế độ nô lệ, nên đã tuyên bố ly khai khỏi chính quyền liên bang, lập ra Liên minh miền Nam. Chiến tranh giữa liên minh hai miền Nam - Bắc đã kéo dài 4 năm, với hơn 600.000 người chết, kết quả là chế độ nô lệ bị đặt ra ngoài vòng pháp luật trên toàn lãnh thổ Mỹ.
Nội chiến Mỹ kết thúc sau khi tướng miền Nam là Robert Lee đã đầu hàng tướng Ulysses Grant miền Bắc. Việc đầu hàng của tướng Lee cũng như cách cư xử của tướng Grant đối với tướng bại trận miền Nam cũng đã viết nên những trang sử hào hùng cho nước Mỹ. Không một người lính miền Nam nào bị bắt làm tù binh, bị trả thù hay bị làm nhục. Không một người lính nào bị đưa đi học tập cải tạo, mà tất cả các binh lính miền Nam đều được trở về quê quán sinh sống như những người dân bình thường!
Tướng Grant cũng đã nghiêm cấm các sĩ quan và binh lính của ông không được có bất cứ hành động nào thất lễ với tướng Lee và những binh sĩ miền Nam bại trận. Khi những người lính miền Bắc diễu hành ồn ào mừng chiến thắng, tướng Grant đã nhắc nhở họ: "NHỮNG KẺ NỔI LOẠN LÀ ĐỒNG BÀO CỦA CHÚNG TA ĐẤY"!
Những việc làm của tướng Grant đã giúp hàn gắn phần nào vết thương trong cuộc nội chiến Mỹ, giúp hòa giải giữa 2 miền Nam - Bắc sau nội chiến, để cả nước cùng bắt tay xây dựng lại nước Mỹ hùng cường sau chiến tranh. Mặc dù có nhiều người dân Mỹ ngưỡng mộ tướng Grant nhưng họ không tôn thờ ông, không xem ông là thánh sống, hay lãnh tụ vĩ đại.
Câu hỏi được đặt ra là: Vì sao nước Mỹ không có lấy một "lãnh tụ vĩ đại"? Đâu là câu trả lời cho câu hỏi này?
1- Sau khi nội chiến Mỹ kết thúc năm 1865, nước Mỹ không còn chế độ nô lệ, người dân được tự do suy nghĩ, tư tưởng của họ không còn bị lệ thuộc, nên không có chuyện nhờ ơn ai đó giúp họ có cuộc sống tốt đẹp, được sống làm người?
2- Các lãnh đạo nước Mỹ, cho dù họ làm được bao nhiêu điều lớn lao cho dân tộc họ, cho đất nước họ, nhưng họ vẫn là con người, với những mặt tốt, mặt xấu, họ có những cái hay, cái dở... nên họ không thể là "thánh", bởi vì "thánh" phải là những con người hoàn hảo, mọi việc làm của họ điều tốt, không có điều gì xấu.
Người Mỹ dù tốt hay xấu, họ không che giấu, họ được tự do viết về lãnh đạo của họ. Các sử gia viết về lãnh đạo phải viết đúng sự thật, nên họ viết cả mặt tốt lẫn mặt xấu. Do vậy nên ở Mỹ không có "lãnh tụ vĩ đại", không có lãnh đạo nào được phong thánh, cho dù còn sống hay đã mất?
3- Do Mỹ là nước dân chủ, nên lãnh đạo Mỹ bị thay đổi liên tục, cứ mỗi 4 hoặc tối đa là 8 năm, có một người mới lên làm tổng thống. Tổng thống Mỹ có người này giỏi hơn người khác, nhưng không có người nào "vĩ đại" để trở thành "thánh", cho nên hơn 200 năm qua, cho dù nước Mỹ đã có tới 44 tổng thống, nhưng không có một "lãnh tụ vĩ đại"?

Sưu tầm.

Thứ Sáu, 26 tháng 7, 2019

Nhái muốn to bằng Bò


La grenouille qui veut se faire aussi grosse que le bœuf
                                                     Jean de La Fontaine


Une Grenouille vit un Boeuf
Qui lui sembla de belle taille.
Elle, qui n'était pas grosse en tout comme un oeuf,
Envieuse, s'étend, et s'enfle et se travaille,
Pour égaler l'animal en grosseur,
Disant: "Regardez bien, ma soeur;
Est-ce assez? dites-moi: n'y suis-je point encore?
Nenni - M'y voici donc? - Point du tout. M'y voilà?
- Vous n'en approchez point. "La chétive pécore
S'enfla si bien qu'elle creva.

Le monde est plein de gens qui ne sont pas plus sages.
Tout bourgeois veut bâtir comme les grands seigneurs,
Tout prince a des ambassadeurs,
Tout marquis veut avoir des pages.



Minh họa của Willy Aractingi


Nhái muốn to bằng bò
                          Bản dịch của Nguyễn Văn Vĩnh


Con nhái nom thấy con bò
Hình dung đẹp đẽ mình to béo tròn
Nhái bằng quả trứng tí hon
Lại toan cố sức bằng con bò vàng
Ngậm hơi, cổ bạnh, bụng trương
Kêu: Chị em đến xem tường cho ta
Đã bằng chưa, chị trông, nà!
Bạn rằng còn kém - Nhái đà phồng thêm
Hỏi rằng: Được chửa, chị em?
Đáp rằng: Chưa được, phồng thêm ít nhiều!
- Chị ơi còn kém bao nhiêu?
Bạn rằng: - Còn phải phồng nhiều, kém xa!
Tức mình chị nhái oắt ta
Lại phồng bụng quá vỡ ra chết liền
Ở đời lắm kẻ thật điên
Sức hèn lại muốn tranh tiên với người
Dại thay những lối đua đòi
Vinh gì cuộc rượu trận cười mà ganh
Để cho cơ nghiệp tan tành

Thứ Hai, 29 tháng 5, 2017

Người mù sờ voi



Vietsciences- La Thiếu Bình
Trong Kinh Đại Bát Niết Bàn 大般涅槃经 do ngài Đàm Vô Sấm 昙无谶 (Dharmaraksa) pháp sư người Ấn, dịch ra Hoa ngữ và Kinh Trường A Hàm của Phật Giáo có kể truyện như sau:
Ngày xưa có một ông vua minh triết, thấy các đại thần của mình thường bảo thủ cố chấp các hiểu biết nhỏ hẹp của mình, bèn sai người dắt đến một con voi thật lớn và một bọn người mù bẩm sinh, để cho họ sờ voi. Sau đó vua hỏi: "Các ông đã biết con voi là như thế nào chưa?"
- Biết rồi! Bọn người mù đáp.
- Thế voi như thế nào?
- Voi xem ra như cái đòn xóc. Người sờ ngà voi bảo.
- Voi như cái quạt. Người sờ tai nói.
- Voi như tảng đá. Người sờ đầu voi đáp.
Người sờ vòi lại bảo: "Voi giống như cái chày".
- Voi giống như cái hộp gỗ. Người sờ mắt voi nói.
- Không phải. Voi như cái giường. Người sờ lưng voi khẳng định.
- Theo tôi con voi như cái thùng to. Người sờ bụng voi kêu lên.
- Đừng cãi nhau nữa, con voi như sợi dây thừng. Người sờ đuôi xác nhận.
Nhà vua nghe bọn mù tranh cãi nhau, cảm khái nói:

Người mù đều rất đông
Tranh nhau nói sự thật
Voi vốn chỉ một thân
Thị phi lại bất đồng
                                                                                    
                                                                                      

Thứ Ba, 9 tháng 8, 2016

Phật dạy: Muốn đón duyên lành thì lòng người phải hướng thiện


 Nguồn: Kiến thức
     Khi lòng người hướng thiện ắt sẽ gặp được thiện duyên. Người với người, nên dùng lòng thiện để đối xử với nhau.
    Người tu thời xưa vì để kết được nhiều thiện duyên mà có thể dùng một đôi giày rơm, một cây gậy và một chiếc bát để đi vân du khắp nơi. Khi đói bụng thì hướng đến người qua đường xin miếng cơm, khi mệt mỏi thì xin ở nhờ một đêm. Họ gọi đó là “hóa duyên”. 
    Mặc dù cuộc sống như vậy có chút nghèo khó nhưng lại rất thảnh thơi. Mỗi ngày đều có thể ngâm nga thưởng thức những cảnh đẹp khác nhau, không lo lắng không u sầu, bốn biển là nhà. Mỗi bước chân đều là nhàn nhã kèm theo tâm “vô dục vô cầu” (không ham muốn, không truy cầu).
    Duyên trong thế gian này có nhiều loại, trong biển người mênh mông, gặp được nhau, trân quý nhau là một cái duyên lành. Phật có dạy rằng, kiếp trước 500 lần ngoái đầu nhìn lại mới đổi được kiếp này một lần gặp thoáng qua. Như thế mới thấy cái duyên trong cuộc đời quý giá đến như nào.
   Nhưng trong cuộc sống, càng nhiều duyên chính là gặp những người thoáng qua trên đường, cùng người qua đường tránh mưa dưới mái hiên hay cùng đứng dưới trạm xe buýt chờ xe. Tất cả những người đó đều là có duyên với chúng ta. Cho dù là trong đại dương mênh mông, hai con cá bơi lội rồi vô tình gặp nhau, cũng là đều bởi vì trong sinh mệnh của chúng có duyên.
   Nói đến nhân duyên có người quan niệm rất sâu, có người quan niệm hời hợt. Nhưng chúng ta dù muốn dù không thì biết rằng đó là một trong những giáo lý quan trọng trong đạo Phật. Thuyết nhân duyên của đạo Phật dạy đó là tất cả những hiện tượng, mọi sự thăng trầm, mọi sự được còn đặng mất trong đời sống của một cá nhân, của một quốc gia, của một xã hội. Một điều quan trọng mà quý vị cần lưu ý là chữ nhân và chữ duyên hai chữ đó ý nghĩa khác nhau, mặc dầu nó thường đi đôi với nhau, nhưng nếu không phân biệt từng chữ thì có thể đưa đến những lầm lẫn đáng tiếc.
   Trong đời sống của một người bình thường Đức Phật dạy rằng việc thiện, việc ác đã làm là những nhân thiện ác ở trong lòng, đó gọi là nhân của đời sống.
   Trong hành trình của cuộc đời, chúng ta gặp rất nhiều người khác nhau rồi cuối cùng họ trở thành “khách qua đường”, cũng có người trở thành người quen biết, bạn thân, thậm chí là người yêu. Đời người có quá nhiều điều không thể biết, chỉ một ý niệm trong đầu, một lần quyết định sẽ có thể nắm được hoặc bỏ qua một lần “duyên”. Tiếp nhận một ai, một điều gì đều là vì duyên, mà bỏ qua cũng là vì duyên. Hết thảy đều là do duyên đã định trước, trong sinh mệnh là như vậy và trong cuộc sống cũng là như thế.
   Duyên phận của con người là một loại quan hệ nhân quả. Duyên phận của đời người, bất luận là ác duyên, thiện duyên, tình duyên, quan duyên…đều là kết quả của hồi báo trải qua nhiều đời nhiều kiếp mà đến. Tri âm tri kỷ là một loại duyên, trong biển người, có thể gặp nhau là “khởi duyên”, quen nhau là “tục duyên”, thân nhau là “định duyên”. Chung Tử Kỳ và Du Bá Nha không cần bất luận lời giới thiệu hay bày tỏ nào, chỉ một khúc “cao sơn mỹ thủy” làm rung động tâm linh. Đây là sự va chạm của tâm linh và tâm linh, là sự gặp gỡ của tri âm và tri âm, là duyên phận tự nhiên, “không ham muốn, không truy cầu”.
   Khi lòng người hướng thiện mới có thể kết được thiện duyên. Khi ở cùng người khác cho dù chỉ là trong một khoảng thời gian bằng “cái chớp mắt” cũng phải đem tấm lòng lương thiện truyền cho đối phương. Đây chính là cách quý trọng duyên tốt nhất. Bởi vì, trong cuộc đời, thuận theo duyên mà không quên khuyến thiện chính là có thể đặt một nền tảng tốt đẹp cho tương lai.
   Thuận theo duyên (tùy duyên) là một loại trí tuệ. Mọi sự tùy duyên, duy trì một tâm thái bình thản chính là cảnh giới cao nhất của đời người. Chỉ cần thuận theo duyên thì cho dù là bầu trời trong xanh hay u ám, đường đời gập ghềnh hay bằng phẳng, trong lòng vẫn sẽ bình thản và thảng đãng. Trong thời gian có hạn của cuộc đời, biết tùy duyên, quý trọng duyên thì càng sống được rộng rãi và giải thoát.